Xã hội Kofun Thời_kỳ_Kofun

Xe ngựa chiến thời kỳ Kofun. Chi tiết trang trí trên gương đồng (thế kỷ V - VI) được tìm thấy ở lăng mộ Eta-Funayama, Kumamoto. Bảo tàng quốc gia Tokyo.

Torai-Jin – Những người nhập cư từ Trung Quốc và Triều Tiên

Những người di cư từ Trung QuốcTriều Tiên đến Nhật Bản thời cổ được gọi là Torai-Jin. Họ đã mang rất nhiều nét văn hóa Trung Quốc đến Nhật Bản. Đánh giá cao kiến thức và văn hóa của họ, triều đình Yamato đã dành sự đối xử ưu tiên cho những Torai-Jin này.

Người nhập cư từ Trung Quốc

Nhiều nhân vật quan trọng trong xã hội là những người nhập cư từ Trung Quốc. Theo Shinsen Jōjiroku, một cuốn danh mục về các dòng họ được biên soạn vào năm 815, người nhập cư Trung Quốc cũng có ảnh hưởng đáng kể trong giai đoạn này, và đã có 163 gia tộc người Trung Quốc có tên.

Theo Nihongi, dòng họ Hata bao gồm một số hậu duệ của Tần Thủy Hoàng đến Yamato vào năm 403 dẫn theo dân chúng trong 120 tỉnh. Theo Shinsen Jōjiroku, dòng họ Hata được chia ra ở nhiều tỉnh khác nhau dưới thời trị vì của Thiên hoàng Nhân Đức để coi sóc nghề tằm tang và sản xuất tơ lụa cho triều đình. Khi cơ quan phụ trách về thương mại được thành lập trong triều đình Yamato, Hata Otsuchichi được cử làm người đứng đầu.

Năm 409, Achi no Omi, tổ tiên của dòng họ Yamato Aya cũng đến với dân chúng thuộc 17 huyện. Theo Shinsen Jōjiroku, Achi đã được phép thành lập một tỉnh mới là Imaki. Dòng họ Kawachi no Fumi, hậu duệ của Hán Cao Tổ, đã mang chữ Hán đến cho triều đình Yamato.

Dòng họ Takamoku là hậu duệ của Tào Tháo. Takamuko no Kuromaro là một thành viên quan trọng của cuộc cải cách Taika.

Người nhập cư từ Triều Tiên

Một tù trưởng Haniwa thời kỳ Kofun, Ibaraki, vào khoảng năm 500. Bảo tàng Anh.

Trong số nhiều người nhập cư Triều Tiên bắt đầu định cư ở Nhật Bản vào đầu thế kỷ IV, một số đã trở thành tổ tiên của các dòng họ lớn ở Nhật Bản. Theo Nihongi, người đầu tiên từ Triều Tiên di cư đến Nhật Bản được sử sách ghi lại là Amenohiboko, một hoàng tử trong truyền thuyết của nước Tân La, một trong ba vương quốc thuộc thời Tam Quốc trên bán đảo Triều Tiên. Amenohiboko đến Nhật Bản vào thời Thiên hoàng Tùy Nhân, vào khoảng thế kỷ III đến thế kỷ IV. Điều kỳ lạ là theo Nihongi, Amenohiboko lại là tổ tiên bên ngoại của công chúa Jingu, người mà theo truyền thuyết đã chinh phục được Tân La. Ngoài ra, dân di cư từ Triều Tiên còn có những thành viên của gia đình vương tộc Bách Tế. Vua Muryeong của Bách Tế được sinh ra ở Nhật Bản vào năm 462 và để lại một người con trai ở đó. Trong thời trị vì của Thiên hoàng Ứng Thần, Geunchogo của gia tộc Bách Tế đã hiến nhiều báu vật và sách vở cho Nhật hoàng. Những nhân tố văn hóa Trung Quốc xuất hiện trong thời kỳ Yamato này cùng với người nhập cư từ Trung Quốc và Triều Tiên được cho là có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Nhật Bản sau này.

Ngôn ngữ

Người Trung Quốc, người Triều Tiênngười Nhật đều có các văn tự cổ, sách sử cổ viết bằng chữ Hán.

Trong khi biết chữ và biết viết là một điều không thể với phần lớn người Nhật Bản bản địa trong giai đoạn này, các kỹ năng về chữ viết của người nước ngoài vẫn được những thành phần thống trị trong xã hội đánh giá cao ở nhiều vùng của Nhật Bản. Thanh kiếm Inariyama, được làm ở Trung Quốc, có những chữ Hán khắc trên đó theo một phong cách Trung Quốc, dẫn đến phỏng đoán rằng chủ nhân của nó, mặc dù là một nhà quý tộc Nhật Bản quyền thế, có thể thật ra là một người nhập cư.

Sự xuất hiện của ngựa và những thay đổi với Nhật Bản

Tượng ngựa Haniwa, có yên và dây cương, thế kỷ VI.

Sử sách Trung Quốc chép rằng ở Nhật Bản không có ngựa và những con ngựa đầu tiên xuất hiện trong thời trị vì của Thiên hoàng Nhân Đức, có lẽ là do những người nhập cư Trung Quốc và Triều Tiên mang đến. Theo Nihonshoki, ngựa là một trong những vật quý ở Nhật Bản được vua Tân La tiến cống cho Jingu. Thủy lợi, nghề tơ tằm và nghề dệt cũng do người Trung Quốc và Triều Tiên mang đến Nhật Bản.

Lính Haniwa thời kỳ Kofun. Bảo tàng quốc gia Tokyo.

Kỵ binh thời kỳ Kofun mặc áo giáp, mang gươm và những vũ khí khác cũng như sử dụng các kỹ thuật quân sự hiện đại giống kỵ binh ở vùng Đông Bắc Á. Bằng chứng cho kết luận này được tìm thấy trong các đồ vật dùng cho đám tang (được gọi là haniwa, nghĩa đen là vòng đất sét) được tìm thấy ở hàng nghìn kofun trên khắp Nhật Bản. Haniwa quan trọng nhất được tìm thấy ở miền Nam Honshu, đặc biệt là ở vùng Kinai và xung quanh Nara, và ở phía bắc Kyushu. Những haniwa chôn theo người chết có rất nhiều hình dáng khác nhau, như hình các con vật ngựa, gà, chim, cá, hình chiếc quạt, ngôi nhà, các hình vũ khí, khiên, ô che nắng, các cái gồi và những hình người nam và nữ. Một đồ vật chôn theo người chết khác, magatama, là những biểu tượng của các gia đình hoàng tộc. Rất nhiều chất liệu văn hóa của thời kỳ Kofun có thể phân biệt được với giai đoạn cùng thời trên bán đảo Triều Tiên, cho thấy vào thời kỳ này Nhật Bản có liên hệ khá gần gũi về mặt chính trị và kinh tế với lục địa châu Á (đặc biệt là các triều đại ở phía Nam Trung Quốc) qua đường Triều Tiên. Những tấm gương bằng đồng được đúc từ cùng một khuôn cũng đã được tìm thấy ở hai bờ eo biển Tsushima.

Liên quan